Tổ đình Phước Lâm tổ chức Húy kỵ Tổ sư Trừng Trử

Thứ ba, 03/11/2020, 14:50 GMT+7

TĐPL - Để tưởng nhớ công đức sâu dày của Hòa thượng Minh Trử húy Trừng Trử và chư vị Tổ sư trụ trì qua các thế hệ nơi chốn tổ; Sáng ngày 02/11/2020 (nhằm ngày 17/9 năm Canh Tý), môn đồ tứ chúng tổ đình Phước Lâm (ấp Phú Lợi, xã Phú Nhuận, Cai Lậy, Tiền Giang) thành kính tổ chức lễ Húy kỵ Tổ sư. 

Bắt đầu buổi lễ, môn đồ tứ chúng đồng vân tập trước Tổ đường; Thượng tọa Thích Phước Nghiêm - Trụ trì tổ đình Phước Lâm niệm hương đảnh lễ Tổ sư. Sau đó quang lâm Chánh điện khai và tụng kinh A Di Đà, cúng ngọ Phật.

Sau thời khóa, trong không khí ấm áp của những ngày mùa Thu, chư huynh đệ trong môn phong tổ đình cùng ngồi xuống bên tách trà, ôn lại những công hạnh của các bậc Tổ sư nơi chốn tổ và chia sẻ những kinh nghiệm trên con đường phụng sự đạo Pháp. Đồng thời, nhắc lại Tiểu sử của Tổ sư – Hòa thượng Minh Trử.


Tiểu Sử Tổ Minh Trử (Trừng Trử)

Tổ Minh Trữ pháp húy Trừng Trữ hiệu Quảng Huệ thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 38 thế danh là Tô Ngọc Trữ sinh năm Kỷ Mão (1829) đời vua Minh Mạng thứ 10, tại thôn Bình Phú, tổng Lợi Thuận, huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường (nay là xã Bình Phú, huyện Cai Lây, tỉnh Tiền Giang).
Tổ sinh ra trong một gia đình kính tin Tam bảo. Thuở thiếu niên, Tổ đã được cha mẹ cho học chữ Nho, giáo lý nhà Phật lẫn võ học. Nên vừa tuổi đôi mươi Tổ đã trở thành một bậc anh tài “văn võ song toàn”, được mọi người yêu quý và khâm phục. Chủng tử Bồ đề của Tổ được ươm mầm từ khi được cha mẹ dẫn đến quy y và xuất gia với Tổ Thanh Lợi hiệu Minh Đức ở chùa Phước Lâm thuộc phái Lâm Tế (dòng Liễu Quán) đời thứ 41, Trụ trì Tổ đình Phước Lâm và được Hòa thượng đặt cho pháp danh là Trừng Trử. 
Năm 1850, Tổ Tiên Giác – Hải Tịnh nhận lời cung thỉnh của các quan cận thần Triều Nguyễn vào phương Nam truyền bá Phật pháp, tiếp Tăng độ chúng, xây dựng nhiều ngôi chùa ở đàng trong.
Năm 21 tuổi, được thầy Bổn sư hướng dẫn, sư Trừng Trử đến cầu pháp với Hòa thượng Tiên Giác - Hải Tịnh thuộc đời 37 phái Lâm Tế (dòng Hoằng Giác Quốc Sư) tại chùa Giác Lâm, Sài Gòn và được Thầy cho pháp danh là Minh Trử, pháp hiệu là Quãng Huệ.
Sau đó không lâu, Ngài được Bổn sư cho đi thọ giới và đắc giới tại chùa Sắc tứ Từ Ân. Ngài được cử về trụ trì chùa Huỳnh Long (Giồng Tre) tại Thôn Bình Phú, tổng Lợi Thuận (đây cũng là nơi chôn nhau cắt rốn của Ngài), thay cho người chú là Đại sư Thanh Đạo – Huệ Nhiên vừa viên tịch. Ngài trụ trì được một năm thì trong làng xãy ra trận Đại dịch. Xót thương cho cảnh khổ của dân chúng, Tổ đã dùng là trầu đặt lên tô nước sạch, trì chú Dược Sư kết hợp với y dược để cứu chữa cho dân lành khỏi bệnh. Từ đây, đức độ và danh tiếng của Ngài vang xa, ai cũng biết đến.
Vì nhận thấy nơi vùng đất Cai Lậy tuy có chùa chiền nhưng pháp khí tòng lâm không có, thì cũng như vùng biên địa. Cho nên, sau khi tham dự Đại Giới đàn ở chùa Tây An (Núi Sam) với ngôi vị đệ lục Tôn chứng. Ngài đã trở về quê nhà, thỉnh cầu Hòa thượng Tiên Giác – Hải Tịnh cho mở Đại Giới đàn tại chùa Huỳnh Long (Giồng Tre) vào ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Thân (1872). Được Tôn sư chấp thuận và nhận lời với cương vị làm Hòa thượng Đường đầu; ngài Hoằng Đạo chùa Phước Long và ngài Minh Chiếu chùa Bảo An ở Gò Vấp làm Yết ma, ngài Quảng An (Tổ đình Giác Lâm) làm Giáo thọ; Hòa thượng Trừng Trử được cung thỉnh làm Chủ kỳ kiêm Giáo thọ. Giới đàn được ông cai tổng Lý Văn Tồn, phú hộ của vùng đất Cai Lậy trợ duyên. 
Cũng trong năm này, Ngài được gia đình ông Lê Văn Xuyên, một phú hộ trong vùng là Phật tử thuần thành (cũng là thân phụ của Hòa thượng Khánh Huy sau này) đã hiến cúng cho rất nhiều ruộng vườn và tài vật để trùng tu ngôi chùa Phước Lâm tại làng Phú Nhuận. 

Đến năm Ất Dậu (1873) công việc trùng tu chùa Phước Lâm đã hoàn thành, để tạ ơn Tam Bảo Ngài đã cho tổ chức Đại Giới đàn. Cung thỉnh Hòa thượng Tiên Giác – Hải Tịnh vào ngôi vị Chứng minh; Hòa thượng Minh Trử được cung thỉnh vào Đường đầu Hòa thượng truyền giới; ngài Minh Thế (chùa Long Quang, Cần Thơ) làm Yết Ma; ngài Phổ Minh (chùa Hội Phước, Sa Đéc) được thỉnh làm Giáo thọ.
Năm Giáp Tuất (1874), vì muốn lưu truyền kinh điển lại cho đời sau, Ngài đã phát tâm chủ trì khắc nhiều bản Kinh và Luật lên mộc bản, những bản kinh bằng gỗ này đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Năm Ất Hợi (1875) chùa Tuyên Châu Di Đà (tỉnh Vĩnh Long) tổ chức khắc kinh Thập Thiện bằng mộc bản đã đến Phước Lâm thỉnh Ngài làm chứng minh. Công việc khắc kinh thành tựu, để tưởng nhớ công đức của Ngài, các vị đã tạc tên của Ngài lên mộc bản, hiện nay vẫn còn.
Ở Phước Lâm hành đạo một thời gian, Hòa thượng lại vào ngọn Chà Là thuộc xã Phú Mỹ (hiện nay là vùng đất bao gồm các xã Mỹ Phú, Mỹ Thạnh và Phú Cường) vạch cỏ, lấy tranh lập am Phước Hội để tịnh tu. Lúc Hòa thượng về đây thì xung quanh còn nhiều thú rừng. Tương truyền: mỗi buổi chiều vào mùa nắng, Hòa thượng thường sai đệ tử xuống ao gánh nước đổ đầy diệm để tối cho các con Nai ra uống. Khi Hòa thượng bị rắn hổ cắn, không cần uống thuốc mà vẫn khỏi; thấy vậy các đệ tử đều cho rằng Ngài đã đắc đạo.
Đến khoản đầu tháng 6 năm Kỷ Sửu (1884), nhận thấy cơ duyên hoằng hóa sắp hết, Ngài đã thông báo cho đệ tử biết là 3 tháng sau Ngài sẽ mãn duyên. Trong thời gian này Ngài đã sắp xếp mọi công việc. Việc tại tổ đình Phước Lâm giao lại cho các đệ tử lớn đảm nhận. Riêng việc của tong phong pháp phái Ngài giao lại cho sư đệ là Hòa thượng Chánh Tâm (Trụ trì tổ đình Kim Cang, Cầu Voi, Long An) điều hành.

Khi sắp xếp công việc xong xuôi, đến rạng sáng ngày 16 tháng 9 năm Kỷ Sửu (1884), sau thời khóa Công phu, Ngài cho tập họp Tăng chúng lại dặn dò lần cuối và an nhiên thị tịch tại Tổ đình Phước Lâm trong ba hồi chuông trống bát nhã vang rền. Môn đồ đệ tử đã xây Bảo tháp tôn thờ nhục thân của Ngài trong khuôn viên tổ đình Phước Lâm cho đến ngày nay.
Lúc sinh tiền Tổ Trừng Trử có rất nhiều đệ tử đến qui y, cầu pháp tu học rất đông, sau này đều là những bậc long tượng của chốn Thiền gia như: Tổ Húy Tâm Bờ hiệu Phước Chí - Khai sơn chùa Khánh Quới, chùa Thiền Lâm - Mộc Sài, chùa Phước Long - Cái Nứa, chùa Phước Thạch, Phước Ân, Phước Khánh Phước Hòa, Phước Sơn, Kim Cang, Song Long, Huỳnh Long (Cây Trí), Long Sơn, Phú Khánh. Sau này có Tổ Nguyên Đồ - Quãng Ân, chùa Linh Phước Phật Đá cũng là vị cao Tăng thời cận đại tại Tiền Giang xuất thân từ tổ đình Phước Lâm; Hòa thượng Hoằng Thông - Trụ trì chùa Sắc tứ Long Hội xuất thân từ chùa Khánh Quới.

Tuy tuổi thọ của Tổ Minh Trử không cao nhưng Ngài đã cống hiến trọn đời cho Đạo pháp và chúng sinh. Ngài là một thiền sự tinh nghiêm giới luật, làu thông kinh tạng, giới đức kiêm ưu, được chư Tăng, Ni khắp Nam kỳ lục tỉnh mến mộ. Ngài là một trong những đệ tử đắc pháp với Tổ Tiên Giác – Hải Tịnh (vị Tổ có công rất lớn với việc truyền bá Phật pháp ở đàn trong). Theo tục xưa, khi thầy Bổn sư còn tại thế hoặc trong tong phong còn vị trưởng bối thì người đệ tử không được ngồi vào ngôi vị Đường đầu truyền giới tại các Giới đàn. Thế nhưng ở đây chúng ta thấy có các trường hợp ngoại lệ; mặc dù Tăng cang Tổ sư Tiên Giác – Hải Tịnh còn tại thế nhưng ba vị đệ tử là: ngài Chơn Ứng, Chơn Giác và Trừng Trử đã được thầy tổ cho phép và Tăng chúng cung thỉnh vào ngôi vị Đường đầu Hòa thượng truyền giới.
Tổ Minh Trử là người có công rất lớn trong việc phát triển Phật pháp ở vùng đất Nam bộ nói chung và tại tổ đình Phước Lâm cùng tông phong pháp phái nói riêng ở thế kỷ 18 trở về sau này.
Hàng năm để tưởng nhớ đến Ân đức của Tổ Trừng Trử, hàng môn đồ tứ chúng tại tổ đình Phước Lâm đều trang nghiêm tổ chức lễ Húy kỵ - Tưởng niệm về Ngài trong tinh thần “Ôn cố tri tân”. 
Sau đây là một số hình ảnh được ghi nhận tại buổi lễ Húy kỵ sáng nay:

 


Như Tùng - Nhuận Huệ

 

Ý kiến bạn đọc